Các nội dung quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai đã thể chế hóa đầy đủ các quy định của Hiến pháp, đảm bảo Hiến pháp được thực thi một cách đầy đủ, trong đó tập trung vào 6 vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, Luật Đất đai khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Quy định rõ quyền của Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu đất đai và trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước đối với đất đai.
Thứ hai, Luật Đất đai cụ thể hóa quy định về quản lý, sử dụng đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước.
Luật Đất đai đã quy định nâng thời hạn giao đất nông nghiệp trong hạn mức cho hộ gia đình, cá nhân từ 20 năm lên 50 năm thống nhất cho các loại đất nông nghiệp; cho phép hộ gia đình, cá nhân tích tụ đất đai với diện tích lớn hơn (10 lần hạn mức giao đất nông nghiệp).
Khuyến khích tích tụ đất đai thông qua cơ chế góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, nhận quyền thuê đất để thuận lợi cho ứng dụng khoa học và công nghệ, cơ giới hóa và phát triển sản xuất hàng hóa.
Thứ ba, Luật cũng thể chế quy định về công khai, minh bạch trong công tác quản lý, sử dụng đất.
Một trong những điểm mới của Luật Đất đai năm 2013 là tăng cường hơn công khai, minh bạch và dân chủ trong quản lý, sử dụng đất, góp phần phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí và làm giảm các khiếu kiện trong lĩnh vực đất đai, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai.
Luật quy định cụ thể về những trường hợp Nhà nước phải thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Trường hợp Nhà nước trưng dụng đất để bảo đảm phù hợp với quy định tại Điều 54 của Hiến pháp.
Quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; nguyên tắc, điều kiện, trình tự, thủ tục thực hiện cưỡng chế, thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc và thực hiện cưỡng chế thu hồi đất nhằm tạo điều kiện cho các địa phương triển khai thực hiện thống nhất.
Quy định hình thức giao đất chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất.
Tăng cường tính công khai, dân chủ thông qua quy định về tham gia của người dân, trách nhiệm giải trình của Nhà nước trong công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, trong việc bố trí tái định cư, đào tạo, chuyển đổi nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm.
Thứ tư, cụ thể hóa vai trò giám sát của nhân dân và các cơ quan dân cử trong quản lý, sử dụng đất.
Luật Đất đai sửa đổi đã quy định tăng cường hơn sự theo dõi, giám sát, đánh giá của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và nhân dân về việc quản lý và sử dụng đất đai.
Công dân có quyền tự mình hoặc thông qua các tổ chức đại diện phản ánh các sai phạm trong quản lý, sử dụng đất đai đến các cơ quan có thẩm quyền. Quy định trách nhiệm của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi nhận được ý kiến của công dân và các tổ chức đại diện.
Quy định về hệ thống theo dõi, đánh giá đối với quản lý và sử dụng đất để đánh giá việc thi hành pháp luật đất đai, hiệu quả quản lý và sử dụng đất đai, sự tác động của chính sách, pháp luật đất đai đến kinh tế, xã hội và môi trường trên phạm vi cả nước và các địa phương. Quy định xử lý trách nhiệm của người thực thi công vụ vi phạm pháp luật đất đai và người đứng đầu cơ quan, tổ chức để xảy ra vi phạm pháp luật đất đai.
Thứ năm, thể chế quy định bảo đảm quyền và lợi ích của người dân trong thực hiện pháp luật đất đai.
Theo quy định của Hiến pháp, quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ, do vậy Luật Đất đai đã cụ thể hơn quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; nghĩa vụ của Nhà nước đối với người sử dụng đất như quy định về những bảo đảm của Nhà nước đối với người sử dụng đất, trách nhiệm của Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số, người trực tiếp sản xuất nông nghiệp; trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung cấp thông tin đất đai cho người dân.
Đổi mới về công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đảm bảo hài hòa lợi ích của người dân, Nhà nước và nhà đầu tư thông qua các quy định về giá đất bồi thường, điều kiện được bồi thường về đất, bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại, bồi thường tài sản gắn liền với đất.
Quan tâm hơn đến đảm bảo sinh kế cho người có đất thu hồi thông qua quy định các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất như hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tạo việc làm; hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở.
Thứ sáu, tiếp tục hoàn thiện các quan hệ đất đai phù hợp với thể chế kinh tế thị trường theo quy định của Hiến pháp.
Luật Đất đai đã bổ sung các quy định nhằm tăng cường vận hành các quan hệ đất đai theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ bao cấp trong quản lý, sử dụng đất đai: Thu hẹp các trường hợp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, giao đất không thu tiền sử dụng đất và cơ bản chuyển sang thuê đất. Quy định nguyên tắc thị trường trong việc xác định giá đất. Khung giá đất, bảng giá đất được xây dựng định kỳ 5 năm 1 lần và được điều chỉnh khi thị trường có biến động. Quy định các trường hợp phải xác định giá đất cụ thể. Bổ sung quy định về cơ quan xây dựng, cơ quan thẩm định giá đất, vị trí của tư vấn giá đất trong việc xác định giá đất và việc thuê tư vấn để xác định giá đất cụ thể.
Để việc triển khai thực hiện Hiến pháp và Luật Đất đai đòi hỏi phải có sự quyết tâm, nỗ lực của hệ thống chính trị và sự tham gia tích cực của nhân dân.
Nguyễn Mạnh Hiển