Hướng dẫn 965 /HD-HND của Trung ương Hội Nông dân VN ngày 09/11/2007
HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
* Hà Nội, ngày 12 tháng 01 năm 2012
Số 03 -BC/HNDTW
BÁO CÁO
Tình hình, kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ V
________________
Phần thứ nhất
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM LẦN THỨ V
Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ V họp từ ngày 21 đến ngày 24/12/2008 tại Thủ đô Hà Nội, Đại hội đã thông qua Nghị quyết về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp công tác Hội và phong trào nông dân nhiệm kỳ 2008 - 2013. Qua 03 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội, công tác Hội và phong trào nông dân đã được triển khai, thực hiện một cách toàn diện và đạt kết quả quan trọng sau:
I- Tình hình phổ biến, học tập quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết
1- Bối cảnh chung
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ V được triển khai trong điều kiện có nhiều thuận lợi. Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ban hành nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, triển khai đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như: Chương trình kiên cố hóa kênh mương, nâng cấp đường giao thông nông thôn, kết cấu hạ tầng nuôi trồng thủy sản và hạ tầng làng nghề nông thôn, nhất là Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Bên cạnh đó, Nhà nước đã đẩy mạnh thực hiện các biện pháp an sinh xã hội; hỗ trợ hàng chục ngàn tỷ đồng khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh và hàng trăm nghìn tấn gạo hỗ trợ hộ nghèo, cứu đói giáp hạt, ảnh hưởng bởi thiên tai. Ngân sách nhà nước chi cho nông nghiệp năm 2011 cao gấp hơn 2,2 lần so với năm 2008. Tính chung 3 năm 2009-2011, tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp - nông thôn đạt gần 290.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 52% tổng vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ. Tỷ trọng chi cho nông nghiệp, nông thôn so với tổng chi ngân sách nhà nước tăng từ 32,8% năm 2008 lên 39,8% năm 2011.
Do vậy, nông nghiệp, nông thôn phát triển khá toàn diện và ổn định, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã chuyển dịch nhanh theo hướng sản xuất hàng hóa, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân vùng nông thôn, thúc đẩy việc hình thành quan hệ sản xuất theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế do nông dân hợp tác với nhau để sản xuất, kinh doanh theo hướng hình thành các tổ hợp tác, hợp tác xã có hiệu quả. Xuất khẩu nông sản đã làm nên thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế với nhiều mặt hàng chủ lực như gạo, thủy sản, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều... góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nói chung và nông dân nói riêng.
Nông dân tin tưởng và phấn khởi trước những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về các giải pháp hạn kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và duy trì phát triển bền vững; trợ cấp kịp thời cho những đối tượng có thu nhập thấp, hộ nghèo, gia đình khó khăn, vùng sâu, vùng xa; trợ giúp, ứng cứu kịp thời vùng bị thiên tai, bão lũ….
Cán bộ, hội viên, nông dân tích cực thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các hội nghị lấy ý kiến nhận xét đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội khoá XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016, hăng hái đi bầu cử đạt tỷ lệ cao; phấn khởi trước sự thành công của Đại hội Đảng các cấp và cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016; mong muốn Đảng, Nhà nước tiếp tục quan tâm hơn nữa đến phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, tiếp tục nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nông dân.
Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết trong 3 năm qua cũng gặp nhiều khó khăn:
- Tình trạng lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao; thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và đời sống cư dân nông thôn.
- Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ; chưa gắn với chế biến và tiêu thụ nông sản quy mô lớn. Phần lớn nông dân chưa có tư duy hợp tác sản xuất lớn gắn với xây dựng thương hiệu và chiến lược tiêu thụ nông sản, do vậy chất lượng nông sản hàng hoá không cao, sức cạnh tranh thấp, dễ bị ép giá, đời sống của một bộ phận nông dân còn khó khăn.
- Môi trường nông thôn đang ở tình trạng đáng báo động; biến đổi khí hậu gây hạn hán, lũ lụt ở nhiều nơi. Tình trạng sông, suối bị ô nhiễm do chất thải của các khu công nghiệp, từ sự khai thác cát, khai thác khoáng sản trái phép và những lò sản xuất vật liệu xây dựng thủ công đã gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp, sức khoẻ, đời sống, gây nhiều bức xúc trong nhân dân.
- Nhiều chính sách của Đảng và Nhà nước hỗ trợ nông dân và phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn chưa thực sự mang lại hiệu quả và lợi ích thiết thực cho nông dân. Nông dân miền núi chưa sống được bằng nghề rừng; nông dân vùng ven biển còn gặp nhiều khó khăn, nhất là việc giá muối sản xuất trong nước thấp, không tiêu thụ được, trong khi Nhà nước vẫn có chủ trương nhập khẩu muối của nước ngoài và việc tầu cá của ngư dân Việt Nam bị tầu nước ngoài bắt giữ, cướp ngư cụ… gây thiệt hại lớn cho diêm dân và ngư dân.
2- Tình hình phổ biến, quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết
Ngay sau Nghị quyết Đại hội được ban hành, Ban Chấp hành Trung ương Hội đã xây dựng và hướng dẫn các tỉnh, thành Hội đã xây dựng kế hoạch, chương trình hành động; tổ chức 2 Hội nghị cán bộ chủ chốt để quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn tại 2 khu vực: Phía Bắc tại thị xã Cửa Lò, Nghệ An từ ngày 13 - 15/5/2009, với 157 đại biểu của 31 tỉnh, thành Hội; Phía Nam tại TP.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ ngày 25-27/5/2009, với 146 đại biểu của 31 tỉnh, thành Hội phía Nam và tỉnh Hưng Yên; đồng thời mở Hội nghị triển khai, quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ V cho cán bộ cơ quan Trung ương Hội tại Hà Nội.
Trung ương Hội đã in ấn, phát hành 121 nghìn cuốn văn kiện Đại hội V, Điều lệ Hội Nông dân Việt Nam tới các tỉnh, huyện, cơ sở và chi hội. Các tỉnh, thành Hội đều triển khai học tập, quán triệt thực hiện Nghị quyết đến các cấp Hội, hội viên, nông dân; biên tập thành các tài liệu, đề cương tuyên truyền kết quả Đại hội, Nghị quyết Đại Hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ V và những điểm mới trong Điều lệ Hội. Đến cuối quý II/2009, cơ bản hoàn thành với hơn 90% cơ sở Hội và có 81,3% cán bộ hội viên tham gia. Đồng thời, phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng, các ấn phẩm thông tin của Hội tuyên truyền về kết quả Đại hội, những nội dung cơ bản của Nghị quyết Đại Hội, Điều lệ Hội và các chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội.
Việc xây dựng chương trình công tác Hội và phong trào nông dân hàng năm, được các cấp Hội bám sát các chỉ tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội của cấp trên và cùng cấp, phù hợp với tình hình từng địa phương trong từng giai đoạn; công tác kiểm tra, giám sát đã được các cấp Hội coi trọng và thể chế hóa trong các chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm của Ban Thường vụ các cấp, giúp mỗi cấp Hội đánh giá đúng tiến độ, kết quả thực hiện và kịp thời điều chỉnh, khắc phục những bất cập, hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện.
II- Đánh giá việc thực hiện Nghị quyết
1- Công tác xây dựng Hội vững mạnh
a- Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng
Quán triệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội; trong 3 năm qua, các cấp Hội đã đổi mới công tác tuyên truyền cả về nội dung và hình thức, đẩy mạnh tuyên truyền thông qua các buổi sinh hoạt chi, tổ hội, các câu lạc bộ; phát hành bản tin, ra chuyên trang, chuyên mục và tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng kết hợp với các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, các cuộc thi, hội thi ở cơ sở, các hoạt động xã hội…
Nhằm tăng cường và nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, Trung ương Hội đã chỉ đạo phát hành rộng rãi Báo Nông thôn ngày nay, Tạp chí Nông thôn mới và các tờ tin nội bộ tới cơ sở; Báo Nông thôn ngày nay phát hành các ấn phẩm nguyệt san, làng cười, Báo Nông thôn ngày nay điện tử, “Trang trại Việt”, “Thế giới và Hội nhập”... Phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân dân, Đài Tiếng nói Việt Nam, VTC16 mở các chuyên mục về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trang thông tin điện tử của Hội (www.nongdan.vn) được cải tiến, nâng cấp đã góp phần thông tin đa dạng, kịp thời, tạo được sự quan tâm của xã hội với hoạt động của Hội và phong trào nông dân.
Các cấp Hội cũng tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng bản tin; phối hợp với các phương tiện thông tin trên địa bàn để đẩy mạnh công tác tuyên truyền của Hội; gắn công tác tuyên truyền với giáo dục chính trị, tư tưởng cho hội viên, nông dân nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật; thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của Hội; đặc biệt đã tập trung tuyên truyền Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, về bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016, Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội... Phát động và tổ chức cho cán bộ, hội viên, nông dân tham gia các cuộc thi tìm hiểu về Đảng, Bác Hồ, về truyền thống của Hội Nông dân Việt Nam nhân các dịp kỷ niệm ngày thành lập gắn với thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chính Minh”. Năm 2010, Trung ương Hội đã phát động cuộc thi “Tìm hiểu về Hội Nông dân Việt Nam 80 năm xây dựng và trưởng thành” thu hút gần 2 triệu cán bộ, hội viên, nông dân và trên 90 ngàn người không thuộc tổ chức Hội tham gia; tổ chức Lễ Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam bảo đảm thiết thực, hiệu quả; phối hợp tổ chức cho cán bộ, hội viên, nông dân tham gia diễu hành Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội và thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”...
b- Xây dựng và thực hiện Đề án
Sau khi có Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Ban Chấp hành Trung ương Hội đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết. Đồng thời, thực hiện nhiệm vụ của Bộ Chính trị giao; Đảng đoàn Hội Nông dân Việt Nam đã xây dựng Đề án "Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam giai đoạn 2010-2020" trình Ban Bí thư Trung ương Đảng. Đề án đã được Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Kết luận số 61-KL/TW, ngày 03/12/2009 để chỉ đạo thực hiện.
Ngay sau khi có Kết luận số 61-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đảng đoàn, Ban Thường vụ Trung ương Hội đã phối hợp với Ban Dân vận Trung ương tham mưu cho Ban Bí thư Trung ương Đảng thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án; chủ động làm việc với các bộ, ngành liên quan thống nhất xây dựng Đề án ”Cơ chế, chính sách để Hội nông dân Việt Nam trực tiếp thực hiện và phối hợp với các bộ, ngành thực hiện một số chương trình, đề án trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nông thôn giai đoạn 2011-2020”. Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua và ban hành Quyết định số 673/QĐ-TTg, ngày 10/5/2011 về việc Hội Nông dân Việt Nam trực tiếp thực hiện và phối hợp thực hiện một số chương trình, đề án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nông thôn giai đoạn 2011-2020.
Trên cơ sở Kết luận số 61-KL/TW và Quyết định số 673/QĐ-TTg; Đảng đoàn Hội Nông dân Việt Nam đã có văn bản đề nghị các tỉnh uỷ, thành uỷ chỉ đạo thực hiện; xây dựng Kế hoạch của Ban Chấp hành Trung ương Hội thực hiện Đề án 61 để chỉ đạo thực hiện trong hệ thống Hội. Với trách nhiệm là cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo, Ban Thường vụ Trung ương Hội đã tham mưu giúp Ban Chỉ đạo Trung ương xây dựng kế hoạch thực hiện Đề án 61 và Quyết định phân công nhiệm vụ cho các thành viên Ban Chỉ đạo Đề án 61.
Trung ương Hội đã làm việc và thống nhất với 8/8 Bộ liên quan về nhiệm vụ, cơ chế, kinh phí thực hiện các nội dung liên quan trong Quyết định số 673/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Năm 2011, Bộ Tài chính đã bổ sung cho Quỹ Hỗ trợ nông dân Trung ương 300 tỷ đồng; Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa vào kế hoạch năm 2012 hơn 100 tỷ đồng cho đầu tư xây mới 10 Trung tâm; nâng cấp và bổ sung trang thiết bị cho 3 Trung tâm dạy nghề và hỗ trợ nông dân cấp tỉnh.
Hội Nông dân các tỉnh, thành phố cũng đã tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền triển khai thực hiện Kết luận số số 61-KL/TW và Quyết định số 673/QĐ-TTg; đã có 62 tỉnh, thành phố (trừ tỉnh Nam Định) có văn bản triển khai thực hiện Kết luận số 61- KL/TW của Ban Bí thư và Quyết định số 673/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; trong đó, có 12 tỉnh thành lập Ban Chỉ đạo, có 62 tỉnh uỷ, thành uỷ có công văn chỉ đạo; 49 tỉnh, thành phố có kế hoạch của Ủy ban nhân dân tỉnh; có 21 tỉnh quy hoạch và bố trí mặt bằng để xây dựng mới các trung tâm dạy nghề và hỗ trợ nông dân; 27 tỉnh, thành phố đã cấp bổ sung ngân sách cho quỹ hỗ trợ nông dân cấp tỉnh ngay trong năm 2011 (trong đó, TP Hà Nội cấp 125 tỷ; các tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Nghệ An, Tiền Giang, Đồng Tháp mỗi tỉnh cấp 10 tỷ đồng; tỉnh Tây Ninh cấp 5 tỷ đồng; tỉnh Tuyên Quang 4 tỷ đồng; tỉnh Bắc Giang 3 tỷ đồng; các tỉnh Hưng Yên, Sơn La, Lào Cai, Bình Phước mỗi tỉnh đã cấp 2 tỷ đồng…) và có kế hoạch bổ sung Quỹ vào những năm tiếp theo; 27 tỉnh, thành Hội đã có kế hoạch bổ sung Quỹ Hỗ trợ nông dân vào năm 2012; có 44 Hội Nông dân tỉnh, thành phố làm việc với các sở ngành để thống nhất nhiệm vụ, kinh phí và cơ chế để Hội Nông dân tham gia các chương trình, đề án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương...
c- Công tác kiện toàn, củng cố xây dựng tổ chức Hội
Ngay sau Đại hội V, Trung ương Hội đã tập trung xây dựng và ban hành: Quy chế làm việc, Chương trình công tác toàn khoá của Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam (khoá V); Hướng dẫn một số vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Hội; Hướng dẫn chế độ sinh hoạt Hội, thu và sử dụng hội phí; Quy định về công tác kiểm tra, kỷ luật Hội. Ban Thường vụ Trung ương Hội đã ban hành Kết luận về phân công nhiệm vụ của từng đồng chí Thường trực, uỷ viên Ban Thường vụ, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội. Đây là các văn bản quan trọng quy định thống nhất các hoạt động của Hội, đưa công tác Hội đi vào nề nếp.
Đồng thời, tiến hành kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy và ban hành Quy định chức năng, nhiệm vụ của các ban, đơn vị thuộc Trung ương Hội theo Đề án đã được Ban Bí thư Trung ương Đảng phê duyệt. Giảm đầu mối đơn vị trực thuộc Trung ương Hội từ 22 đơn vị xuống 15 đơn vị. Năm 2010, nhằm tạo điều kiện đẩy mạnh công tác dạy nghề cho nông dân, Ban Thường vụ Trung ương Hội quyết định thành lập Trường Trung cấp nghề; đồng thời chỉ đạo triển khai xây dựng các phân hiệu của Trường Cán bộ Hội để tăng cường đào tạo cán bộ Hội các cấp.
Ban Chấp hành Trung ương Hội đã tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 05-NQ/HND (khoá III) về xây dựng cơ sở Hội vững mạnh, 5 năm thực hiện Nghị quyết 04-NQ/HND (khoá IV) về nâng cao chất lượng tổ chức Hội các cấp; đồng thời tiếp tục ban hành Nghị quyết số 06 ngày 19/7/2010 về tiếp tục xây dựng tổ chức Hội các cấp vững mạnh.
Trung ương Hội đã kịp thời phối hợp với tỉnh, thành ủy để chuẩn y và bổ sung 257 Uỷ viên Ban Chấp hành; 65 Ủy viên Ban Thường vụ cùng các chức danh Chủ tịch, Phó chủ tịch Ban Chấp hành Hội nông dân các tỉnh, thành phố. Bổ sung 24 Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và 04 Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Hội. Chỉ đạo kiện toàn hệ thống ban kiểm tra và đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra các cấp...
Công tác xây dựng tổ chức Hội vững mạnh luôn được các cấp Hội quan tâm thực hiện. Trong đó, nhiều loại hình tập hợp mới được các cấp Hội triển khai thực hiện phù hợp với tình hình nông dân trong giai đoạn hiện nay, nhất là hình thức tập hợp nông dân theo các nhóm ngành nghề, sở thích; tập hợp nông dân thành các tổ, nhóm sản xuất, vay vốn, tiết kiệm; Tổ “Hùn vốn làm nhà”, “Tổ an ninh nhân dân”, “Tổ tín dụng, tiết kiệm”, “Câu lạc bộ khuyến nông”; “Tổ đoàn kết bám biển”; Câu lạc bộ nông dân với pháp luật; .v.v. đã đem lại lợi ích thiết thực cho hội viên, qua đó, đã tập hợp được rộng rãi nông dân vào tổ chức Hội. Trong 3 năm qua, đã kết nạp 1.466.834 hội viên; nâng tổng số hội viên tính đến 30/6/2011 là 10.526.194 người, đạt 84,3% số hộ làm nông nghiệp và 87,72% chỉ tiêu Đại Hội.
Hiện tại, 100% thôn, ấp, bản có nông dân có tổ chức Hội, đạt mục tiêu Đại hội với 93.727 chi hội, trong đó có 84.623 chi hội theo thôn, xóm cụm dân cư; 1.977 chi hội nghề nghiệp, dịch vụ; 389 chi hội theo hợp tác xã; 232 chi theo các loại hình khác (như chi hội nông, lâm trường, chi hội doanh nghiệp…) và 172.816 tổ hội, trong đó có 166.483 tổ hội theo cụm dân cư, 4.697 tổ hội nghề nghiệp. Nhiều cơ sở Hội đã thành lập chi hội theo chi bộ đảng; lồng ghép nội dung sinh hoạt với bảo đảm lợi ích thiết thực cho hội viên thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các phong trào thi đua của địa phương và của Hội gắn với việc hỗ trợ, tư vấn, dịch vụ cho nông dân…, vì vậy, đã thu hút đông đảo hội viên tham gia sinh hoạt (bình quân đạt 75 - 80% so với số hội viên), gắn kết được hội viên với tổ chức Hội. Qua phân loại, đánh giá hàng năm tỷ lệ chi, tổ hội vững mạnh ngày càng tăng. Năm 2008 có 88,14% chi hội khá và vững mạnh; năm 2010 có 89,33% chi hội khá và vững mạnh, trong đó 62,19 % chi hội vững mạnh. Hầu hết các chi hội đều xây dựng được quỹ hội để hoạt động từ nhiều nguồn và hình thức khác nhau. Số chi hội xây dựng được quỹ hội để hoạt động tăng từ 83,3% (năm 2008) lên 87,2% (năm 2010) với tổng số tiền quỹ có là 217,410 tỷ đồng. Tỉ lệ hội viên tham gia sinh hoạt tăng từ 74,36% (năm 2008) lên 82,59% (2010) và nộp hội phí 67% (năm 2008) lên 86,69% (năm 2010). Tỉ lệ hội viên là đảng viên chiếm 8,1%. Cuối năm 2010, hội viên được phát thẻ đạt 84,5%. Năm 2010, Ban Chấp hành Trung ương Hội đã tổng kết các Nghị quyết chuyên đề của Ban Chấp hành Trung ương Hội về công tác tổ chức, cán bộ và ban hành Nghị quyết về tiếp tục xây dựng tổ chức Hội vững mạnh trong thời gian tiếp theo.
Thực hiện Điều lệ Hội, Ban Thường vụ Trung ương Hội đã xây dựng Kế hoạch tổ chức Đại hội đại biểu hội nông dân các cấp nhiệm kỳ mới theo hướng rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ đại hội Hội Nông dân cấp huyện và cơ sở để thống nhất tổ chức đại hội các cấp vào năm 2012; ban hành Hướng dẫn công tác nhân sự Hội Nông dân cấp tỉnh, nhiệm kỳ 2013-2018 và cấp huyện nhiệm kỳ 2012-2017.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội các cấp tiếp tục được quan tâm thực hiện. Trong 3 năm, đã có gần 300 nghìn lượt cán bộ Hội các cấp được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị. Đến nay, trong hệ thống Hội đã có 45,63% Chủ tịch; 19,73 % Phó Chủ tịch Hội cơ sở có trình độ trung cấp chính trị; 32,67% Chủ tịch, 31,68% Phó Chủ tịch Hội cơ sở có trình độ sơ cấp chính trị; 69,5% cán bộ chuyên trách cấp tỉnh, 77,1% cán bộ chuyên trách cấp huyện (trong đó 81,7% Chủ tịch), 90,8% Chủ tịch và 81,9% Phó Chủ tịch Hội cơ sở, 76,7% chi hội trưởng được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Hội. Hầu hết cán bộ làm công tác kiểm tra các cấp được tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ, công tác hoà giải và kỹ năng tổ chức Câu lạc bộ nông dân với pháp luật.
d- Công tác kiểm tra
Trung ương Hội chỉ đạo các cấp Hội kiện toàn hệ thống Ban Kiểm tra và đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra gắn với đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ công tác Hội. Ban hành Quy định công tác kiểm tra và kỷ luật của Hội Nông dân Việt Nam. Đã chú trọng chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác kiểm tra trong hệ thống Hội; hằng năm, Ban Thường vụ Trung ương Hội xây dựng Chương trình kiểm tra, giám sát để chỉ đạo thực hiện. Hệ thống Ban kiểm tra và đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra các cấp được kiện toàn. Đến nay 63 tỉnh, thành phố đã xây dựng hệ thống kiểm tra từ tỉnh đến cơ sở với 34.607 cán bộ.
Trung ương Hội đã duy trì và đổi mới phương thức giao ban theo các khu vực 6 tháng, 01 năm bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Thường trực Trung ương Hội duy trì đều đặn Hội nghị giao ban hằng quý với các ban, đơn vị trực thuộc để nắm bắt tình hình, tháo gỡ khó khăn, tăng cường phối hợp giữa các đơn vị nhằm chỉ đạo hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn. Đồng thời, chú trọng kiểm tra thực hiện các chương trình dự án, quản lý tài chính, thực hiện các quy chế, quy định đã đề ra.
Các tỉnh, thành Hội đã tổ chức 129.540 cuộc kiểm tra về thực hiện Điều lệ Hội, nghị quyết, chương trình công tác Hội, kiểm tra tình hình xây dựng và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ nông dân, quỹ Hội và các chương trình, dự án do Hội quản lý, thực hiện. Các cấp Hội đã tích cực tham gia giám sát việc chi trả tiền bồi thường cho nông dân khi thu hồi đất hoặc bồi thường thiệt hại cho nông dân của các công ty gây ô nhiễm môi trường…; tham gia giám sát việc cấp quà Tết, gạo cứu trợ cho các hộ nghèo, gia đình chính sách.
Qua kiểm tra, đã phát hiện và kiến nghị khắc phục thiếu sót, chấn chỉnh lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả công tác. Trung ương Hội đã kỷ luật 01 tập thể và 01 cá nhân; các cấp Hội ở địa phương đã kỷ luật 19 cán bộ hội (7 cán bộ cấp huyện, 12 cán bộ cơ sở) có sai phạm trong quản lý vốn vay, thu phí sinh viên nghèo vay vốn và thiếu trách nhiệm trong công tác Hội.
đ- Công tác thi đua - khen thưởng
Công tác thi đua, khen thưởng của Hội tiếp tục được đổi mới. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Trung ương Hội đã kiện toàn và ban hành Quy chế (sửa đổi, bổ sung) hoạt động của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương Hội; sửa đổi Quy chế xét tặng Kỷ niệm chương Vì giai cấp nông dân Việt Nam; Quy định về công tác thi đua - khen thưởng trong hệ thống Hội cho phù hợp với tình hình mới. Đã tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW, ngày 21/5/2004 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”; tổ chức thành công các Hội nghị nông dân điển hình tiên tiến các cấp; Đại hội thi đua yêu nước và biểu dương nông dân điển hình tiên tiến toàn quốc lần thứ III. Các phong trào thi đua của Hội đều được triển khai gắn với các cuộc vận động, phong trào thi đua lớn của Đảng, Nhà nước như Cuộc vận động “Học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” và các cuộc vận động do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động như: Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”.
Các tỉnh, thành Hội kịp thời triển khai thực hiện các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương Hội và của địa phương về công tác thi đua, khen thưởng; hàng năm tổ chức tốt 3 phong trào thi đua lớn của Hội gắn với thực hiện “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Làm tốt công tác bình xét và đánh giá kết quả các phong trào thi đua hằng năm. Đặc biệt, đã tổ chức thành công các hội nghị biểu dương nông dân điển hình tiên tiến ở địa phương; Đại hội thi đua yêu nước và biểu dương nông dân điển hình tiên tiến toàn quốc lần thứ III.
Nhìn chung công tác thi đua khen thưởng của Hội đã từng bước đi vào nền nếp, tạo động lực để các cấp Hội hoàn thành nhiệm vụ chính trị. 3 năm qua, đã có 5.290 tập thể, cá nhân được tặng Cờ, Bằng khen của Ban Chấp hành Trung ương Hội (trong đó có 238 nông dân được khen tại Đại hội thi đua yêu nước và biểu dương nông dân điển hình tiên tiến toàn quốc lần thứ III), 27.253 cá nhân được tặng Kỷ niệm chương “Vì giai cấp nông dân Việt Nam”; hiệp y đề nghị Đảng, Nhà nước khen thưởng cho 70 tập thể, cá nhân. Đồng thời, tổ chức khen thưởng kịp thời cho các đơn vị, cá nhân nhân dịp sơ kết, tổng kết các nghị quyết chuyên đề, nghị quyết liên tịch… Kịp thời đề nghị Nhà nước xét tặng Huân chương lao động, Cờ thi đua của Chính phủ và Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc. Đặc biệt, năm 2010, nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Hội, giai cấp nông dân Việt Nam đã được tặng thưởng Huân chương Sao vàng (lần 2), phần thưởng cao quý nhất của Đảng và Nhà nước ta.
e- Công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế
Công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế của Hội được tăng cường và triển khai theo đúng đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Hằng năm, Trung ương Hội đã tổ chức cho hàng chục lượt cán bộ Hội đi công tác nước ngoài và đón tiếp, làm việc với hàng chục đoàn khách quốc tế đến thăm và làm việc với Trung ương Hội; đăng cai và tổ chức nhiều Hội thảo quốc tế tư vấn về các vấn đề liên quan đến phát triển nông nghiệp, nông thôn bảo đảm theo đúng các quy định; năm 2009 đã tổ chức cho một số cán bộ lãnh đạo các tỉnh, thành Hội và hội viên nông dân sản xuất giỏi đi học tập kinh nghiệm các nước về chăn nuôi bò sữa, trồng trọt, chế biến nông sản và tiêu thụ sản phẩm… Năm 2010, Ban Thường vụ Trung ương Hội đã tổng kết 20 năm công tác đối ngoại và tiếp tục đề ra nhiệm vụ tăng cường công tác hợp tác quốc tế trong thời gian tiếp theo.
Một số tỉnh, thành Hội đã ký kết với các tổ chức quốc tế thực hiện các chương trình, dự án về nâng cao năng lực cán bộ Hội; xây dựng các mô hình trình diễn và mở các lớp tập huấn về kỹ thuật sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Phối hợp tham gia các dự án của các tổ chức phi chính phủ, như các tổ chức OXPAM đoàn kết Bỉ, ADDA Đan Mạch, các dự án của Ngân hàng thế giới… đang mang lại hiệu quả cho nông dân. Hội Nông dân Thành phố Hà Nội đã phối hợp tổ chức thành công Hội chợ triển lãm tại Bundapet (Hungari). Nhiều tỉnh, thành phố đã quan tâm tạo điều kiện cử đoàn cán bộ Hội Nông dân đi học tập kinh nghiệm ở nước ngoài.
2- Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, dạy nghề, tư vấn, hỗ trợ nông dân
Một trong những hoạt động trọng tâm của công tác Hội từ đầu nhiệm kỳ là tập trung đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, dạy nghề, tư vấn, hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống.
Để tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ về vốn giúp nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh, Hội Nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Hội nông dân Việt Nam (khóa V) đã ban hành Kết luận số 535-KL/HNDTW ngày 19/7/2010 “Về tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát triển Quỹ Hỗ trợ nông dân”; Ban Thường vụ Trung ương Hội đã ban hành Điều lệ (sửa đổi, bổ sung) tổ chức và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ nông dân theo Quyết định số 573QĐ-TTg, ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Trên cơ sở đó, các cấp Hội đã vận động xây dựng quỹ đến 30/11/2011, tăng thêm trên 600 tỷ đồng (trong đó, ngân sách Nhà nước cấp theo Quyết định số 673QĐ-TTg gần 550 tỷ đồng), nâng tổng nguồn vốn Quỹ Hỗ trợ nông dân các cấp đạt 1.008,514 tỷ đồng, gồm: Quỹ Trung ương 350,180 tỷ đồng; Quỹ cấp tỉnh 408,273 tỷ đồng; Quỹ cấp huyện và xã: 250,061 tỷ đồng. Trong năm 2011, Quỹ Hỗ trợ nông dân các cấp đã hỗ trợ trên 75.000 hộ nông dân có thêm vốn đầu tư phát triển sản xuất.
Các cấp Hội đã phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội củng cố, sắp xếp lại các Tổ tiết kiệm và vay vốn. Đến 31/10/2011, Hội Nông dân Việt Nam quản lý 69.993 tổ Tiết kiệm và vay vốn với 2.375.386 thành viên, dư nợ 33.597 tỷ đồng, tăng 10,08% so với năm 2010.
Các tỉnh, thành Hội tiếp tục phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng các Tổ vay vốn; triển khai thực hiện Nghị định 41/2010/NĐ-CP, ngày 12/4/2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đến 30/11/2011, có 29.373 Tổ vay vốn hoạt động, với 613.233 thành viên, số tiền dư nợ là 11.472 tỷ đồng...
Ngoài ra, nhiều tỉnh, thành Hội tích cực phối hợp với các công ty cung ứng vật tư nông nghiệp theo phương thức trả chậm trị giá hàng trăm tỷ đồng và tập huấn kỹ thuật, quy trình sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật các loại, thức ăn gia súc và nhiều loại máy nông nghiệp...
Trung ương Hội và các cấp Hội đã củng cố, nâng cấp các Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân của tỉnh, thành Hội và của Trung ương Hội. Mặc dù cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề còn thiếu, song các tỉnh, thành Hội đã có nhiều biện pháp tuyên truyền, vận động nông dân tham gia học nghề; hằng năm đã tổ chức dạy và phối hợp dạy nghề cho khoảng 220.000 - 290.000 hội viên, nông dân về sản xuất nông nghiệp và các nghề phi nông nghiệp, vượt chỉ tiêu Đại hội (Phối hợp tổ chức dạy nghề ngắn hạn cho 20 vạn nông dân/năm), góp phần nâng cao kỹ năng sản xuất và chuyển đổi cơ cấu lao động ở nông thôn.
Năm 2011, Trung ương Hội đã quyết định thành lập Trường Trung cấp nghề Hội Nông dân Việt Nam. Thực hiện Quyết định số 673/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong thời gian tới Hội Nông dân Việt Nam sẽ đầu tư xây mới và nâng cấp, bổ sung các trang thiết bị Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân ở cấp tỉnh để tổ chức các hoạt động dịch vụ, dạy nghề và hỗ trợ nông dân.
Các cấp Hội đã chủ động phối hợp với các cơ quan chuyên môn, các doanh nghiệp tổ chức tập huấn khuyến nông được trên 22,5 triệu lượt hội viên, nông dân. Xây dựng hàng chục ngàn mô hình trình diễn sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, mô hình sản xuất, kinh doanh, nhất là các mô hình sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn Việt GAP. Nhiều tỉnh, thành Hội tích cực tham gia hướng dẫn hội viên, nông dân phát triển các hình thức kinh tế tập thể; phối hợp với các công ty tập huấn kỹ thuật sử dụng phân bón và cung ứng gần 500 ngàn tấn phân bón các loại mỗi năm cho nông dân theo phương thức trả chậm.
Thông qua Chương trình vốn quốc gia về việc làm, đến năm 2011, Trung ương Hội đã triển khai 175 dự án với quy mô từ 150 - 500 triệu/dự án, giải quyết việc làm cho 2.123 lao động mới; các cấp Hội đang quản lý 808 tỷ đồng, giải quyết được việc làm cho khoảng 42.500 lao động.
Trung ương Hội tiếp tục phối hợp với các doanh nghiệp tổ chức Hội chợ tại các khu vực nhằm tăng cường quảng bá, giới thiệu và tiêu thụ nông sản hàng hoá cho nông dân; phối hợp xây dựng hệ thống "Sàn kết nối cung cầu nông nghiệp thực phẩm"; Chương trình tăng cường thông tin cho nông dân trồng lúa ở 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và bước đầu triển khai các Chương trình truyền hình trợ giúp nông dân đồng bằng sông Cửu Long về thông tin thị trường...
2- Tổ chức các phong trào nông dân
a- Phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xoá đói, giảm nghèo và làm giàu chính đáng
Phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xoá đói, giảm nghèo và làm giàu chính đáng tiếp tục được xác định là trọng tâm hoạt động để thu hút đông đảo hội viên, nông dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới của đất nước. Nhìn chung, Phong trào phát triển ngày càng sâu rộng, có sức lan tỏa lớn. Số lượng hội viên, nông dân đăng ký đạt danh hiệu nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi ngày càng tăng. Trong 3 năm qua, hằng năm đã có trên 4 triệu lượt hội viên đăng ký và đến nay, cả nước đã có gần 3,9 triệu hội viên, nông dân đạt danh hiệu sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp.
Phong trào đã có bước chuyển biến về chất theo hướng hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, xây dựng nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp ứng dụng khoa học kỹ thuật cao, trong đó đã xuất hiện nhiều mô hình trang trại sản xuất theo tiêu chuẩn Việt GAP. Theo thống kê, tính đến năm 2011, cả nước có 145.880 trang trại; trong đó, có 42.613 trang trại cây trồng hàng năm, 25.655 trang trại cây lâu năm, 23.558 trang trại chăn nuôi, 37.142 trang trại nuôi trồng thủy sản. Thông qua các mô hình sản xuất, kinh doanh đã dần hình thành cách thức liên kết sản xuất trong nông dân, nông thôn, như: Tổ liên kết sản xuất bưởi da xanh theo tiêu chuẩn Việt GAP ở Chợ Lách, Bến Tre; tổ liên kết trồng xoài theo tiêu chuẩn Việt GAP ở Cao Lãnh, Đồng Tháp; mô hình nông dân liên kết cùng nhau làm du lịch sinh thái ở Yên Bình, Yên Bái; Hợp tác xã chăn nuôi tại huyện Sông Lô, Vĩnh Phúc… Ngoài ra, nhiều địa phương đã chú ý đến khai thác mô hình nông nghiệp đô thị mang lại hiệu quả kinh tế cao như mô hình trồng hoa lan ở tỉnh Vĩnh Long, thành phố Hồ Chí Minh; kinh doanh hoa đào Nhật Tân; nuôi thuỷ sản tập trung an toàn tại xã Đông Mỹ, Thanh Trì (Hà Nội); các cánh đồng mẫu lớn, các mô hình làm vườn kết hợp du lịch tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long…
Cùng với thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi; cán bộ, hội viên, nông dân còn đóng góp hàng tỷ đồng cho Quỹ “Ngày vì người nghèo”, tích cực phổ biến kinh nghiệm làm ăn, cho mượn vốn, cung cấp giống cây, con, tạo việc làm tại chỗ cho gần 260.000 hộ nông dân nghèo, với số tiền hàng trăm tỷ đồng, gần 5 triệu ngày công và nhiều vật tư nông nghiệp khác trị giá hàng chục tỷ đồng.
Nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của phong trào; năm 2011, Trung ương Hội Nông dân đã ban hành quy định tiêu chuẩn hộ nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp giai đoạn 2011 - 2016; ra Nghị quyết về đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động và hướng dẫn phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2011 - 2020, sẽ tổ chức Hội nghị tổng kết phong trào nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi toàn quốc lần thứ IV vào năm 2012.
b- Phong trào nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới
Các cấp Hội đã tạo ra nhiều hoạt động tuyên truyền cho nông dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về văn hóa, xã hội, nhất là vấn đề về bảo vệ môi trường, bài trừ các tệ nạn xã hội, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và an toàn vệ sinh lao động trong sản xuất nông nghiệp; xây dựng gia đình văn hóa… nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao gắn với giáo dục ý thức công dân, truyền thống gia đình, dòng tộc và nếp sống văn minh ở khu dân cư đã được đông đảo nông dân hưởng ứng như: Hội thi “Tiếng hát đồng quê”, các giải Bóng chuyền, Bóng đá nông dân, các cuộc thi “Nhà nông đua tài”, “Nhà nông với pháp luật”… Nhiều địa phương đã xây dựng các câu lạc bộ gia đình nông dân văn hoá, gia đình nông dân hạnh phúc...; vận động hội viên, nông dân thực hiện tiêu chí “Làng văn hóa”; tham gia Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc 18/11 hằng năm, thực hiện 3 công trình hợp vệ sinh tại hộ, vệ sinh đường làng, ngõ xóm, trồng cây xanh tạo cảnh quan, thay đổi bộ mặt nông thôn.
Hằng năm, Trung ương Hội phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tổ chức các buổi mít- tinh hưởng ứng các chương trình quốc gia bảo vệ môi trường, phòng, chống ma túy, kế hoạch hóa gia đình… thu hút hàng chục ngàn nông dân tham gia. Thông qua các chương trình xã hội, dân số, gia đình, hằng năm, các tỉnh, thành Hội tổ chức được khoảng 2.000 lớp tập huấn cho gần 10.000 lượt cán bộ Hội các cấp; khoảng 26.400 cuộc truyền thông ở cộng đồng cho gần 3 triệu lượt hội viên nông dân; duy trì hoạt động hiệu quả hơn 30.000 tổ, nhóm, câu lạc bộ nông dân với công tác xã hội, dân số, gia đình,…
Đồng thời, các cấp Hội đẩy mạnh vận động nông dân đóng góp tiền và công sức tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, tham gia xây dựng nông thôn mới. Trong nửa đầu nhiệm kỳ, thông qua các hoạt động tuyên truyền, vận động, các hội viên, nông dân cả nước đã đóng góp 1,95 ngàn tỷ đồng, trên 40 triệu ngày công để làm mới và sửa chữa gần 345 ngàn km đường giao thông nông thôn, 182 ngàn km kênh mương nội đồng và hàng ngàn nhà văn hóa xã, thôn, ấp, bản...
Thông qua các chương trình truyền thông của Hội, đại đa số hội viên nông dân đã có nhận thức đúng về vai trò của văn hóa, từ đó tích cực xây dựng gia đình, làng bản văn hóa. Hằng năm có khoảng 8 triệu hộ gia đình nông dân đạt danh hiệu gia đình văn hóa; duy trì được hàng triệu hộ gia đình nông dân thực hiện tốt các chính sách về xã hội, dân số, gia đình; hàng vạn hộ gia đình nông dân đã xóa được đói, giảm được nghèo, góp phần xây dựng xã hội nông thôn ổn định, tiến bộ và phát triển bền vững. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Cuộc vận động “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” đang được các cấp hội tích cực vận động hội viên, nông dân tham gia. Tại 11 xã điểm về xây dựng nông thôn mới đã hoàn thành 902/1.188 công trình hạ tầng, đạt 76% kế hoạch...
Để tăng cường và nâng cao chất lượng phong trào nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới, năm 2011, Ban Chấp hành Trung ương Hội đã ban hành Nghị quyết tham gia thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 - 2020.
c- Phong trào nông dân tham gia bảo đảm quốc phòng, an ninh
Với mục tiêu tuyên truyền nâng cao ý thức công dân trong nông dân về bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất đất nước, nâng cao cảnh giác, đấu tranh chống diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch và tham gia bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội. Trong những năm qua, Hội Nông dân Việt Nam đã chủ động phối hợp với các cấp chính quyền, công an, quân đội tổ chức nhiều lớp tập huấn cho cán bộ Hội về công tác phòng chống tội phạm, buôn bán phụ nữ và trẻ em; tích cực vận động hội viên, nông dân tham gia Phong trào nông dân tham gia bảo đảm quốc phòng, an ninh. Trong 3 năm qua, Phong trào tiếp tục có bước phát triển, thu hút đông đảo hội viên tham gia.
Tại các địa bàn nơi biên giới, Hội Nông dân các cấp đã vận động cán bộ, hội viên, nông dân tham gia bảo vệ đường biên, mốc biên giới, bảo vệ chủ quyền biển đảo và tham gia lực lượng dân quân tự vệ; xây dựng “Điểm sáng vùng biên”, chống di cư trái phép…
Hội Nông dân các tỉnh ven biển còn tích cực vận động nông dân tham gia các tổ đoàn kết bám biển nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất, hỗ trợ nhau trong phòng tránh thiên tai, cứu hộ, cứu nạn; các tổ đoàn kết bám biển còn cung cấp nhiều thông tin quan trọng giúp các cơ quan chức năng xử lý kịp thời nhiều vụ việc vi phạm trên biển, góp phần bảo vệ nguồn lợi thủy sản, giữ vững an ninh trật tự trên biển. Điển hình là tỉnh Quảng Bình thành lập 256 tổ với 1.530 tàu, thuyền với gần 10.000 ngư dân; tỉnh Bình Thuận thành lập 606 tổ gồm 3.929 tàu với 24.976 lao động; tỉnh Quảng Nam thành lập 64 tổ với 594 phương tiện…
Các cấp Hội cũng đã chủ động phối hợp với ngành công an, các ngành liên quan tích cực tuyên truyền cho cán bộ, hội viên, nông dân nâng cao nhận thức và ý thức, trách nhiệm phòng chống tội phạm, xây dựng các tổ tự quản và tổ Hội vừa là tổ an ninh vừa là tổ liên gia hòa giải ở thôn xóm; phát động toàn dân đoàn kết xây dựng các mô hình phòng chống tội phạm và bài trừ tệ nạn xã hội; cam kết gia đình không có người vi phạm pháp luật… Thông qua phong trào, hội viên, nông dân đã cung cấp hàng ngàn tin cho cơ quan Công an; cảm hóa giáo dục hàng ngàn người lầm lỗi, vận động hàng trăm người phạm tội đầu thú, tự báo; xoá hàng trăm tụ điểm phức tạp…
4- Tham gia xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh và khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Các cấp Hội đã tổ chức cho cán bộ, hội viên, nông dân tham gia ý kiến xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tham gia đóng góp ý kiến phê bình cán bộ, đảng viên, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đã bồi dưỡng, giới thiệu trên 13 ngàn hội viên ưu tú học lớp đối tượng Đảng, trong đó có 9.589 hội viên được kết nạp vào Đảng. Nhiều cán bộ Hội các cấp được bổ nhiệm vào các chức danh lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền địa phương; trong đó có 6.378 cán bộ Hội Nông dân tham gia cấp ủy các cấp. Năm 2011, các cấp Hội đã tích cực vận động nông dân tham gia các hội nghị lấy ý kiến nhận xét đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội khoá XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016, hăng hái đi bầu cử đạt tỷ lệ cao. Đã có nhiều lãnh đạo chủ chốt Hội Nông dân các cấp trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011- 2016, trong đó: có 6 cán bộ Hội Nông dân trúng cử đại biểu Quốc hội khoá XIII, 8.608 cán bộ Hội Nông dân tham gia Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016.
Trung ương Hội đã tích cực tham gia xây dựng các nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn như: Dự thảo Nghị định về kinh doanh, xuất khẩu gạo, về chính sách bảo hiểm nông nghiệp, Dự thảo Luật Thuế bảo vệ môi trường…; đã kịp thời kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sửa đổi các thủ tục cho vay vốn có hỗ trợ lãi suất theo Quyết định số 497/QĐ-TTg ngày 17/04/2009; bổ sung đối tượng vay vốn theo Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2010; bổ sung đối tượng cán bộ Hội được đào tạo theo Quyết định số 1045/QĐ-TTg ngày 07/7/2010, kiến nghị kiểm soát việc chuyển đất lúa sang các mục đích khác…
Các cấp Hội luôn chủ động hướng dẫn hội viên nông dân thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Duy trì tốt việc tiếp dân, gắn với tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho hội viên, nông dân theo Chỉ thị số 26/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ; phối hợp trợ giúp pháp lý cho 585.216 hội viên, nông dân; hoà giải gần 120 nghìn vụ mâu thuẫn; tiếp nhận và tham gia giải quyết 48.831 đơn, thư khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của hội viên, nông dân. Đề nghị Hiệp hội Lương thực và Công ty Lương thực Miền Nam về giải pháp bảo đảm quyền lợi của nông dân trong xuất khẩu gạo; báo cáo Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng và các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu Công ty Vedan Việt Nam gây ô nhiễm môi trường bồi thường thiệt hại cho nông dân. Kịp thời có văn bản đề nghị Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam có ý kiến với Chính phủ Lào và Ủy hội sông Mê Kông quốc tế về việc xây dựng thủy điện trên sông Mê Kông, không làm ảnh hưởng tới môi trường và sinh kế của người dân sống dọc bờ sông Mê Kông; kiến nghị với Đảng và Nhà nước có biện pháp bảo vệ chủ quyền biển đảo, bảo vệ ngư dân đánh bắt hải sản trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam…
III- Đánh giá chung
Ba năm qua, công tác Hội và phong trào nông dân đã có chuyển biến tích cực, khởi sắc rõ nét, đột phá vào những nhiệm vụ trọng tâm, đạt kết quả toàn diện trên nhiều lĩnh vực; đã có 5/8 chỉ tiêu hoàn thành sau 3 năm thực hiện Nghị quyết[1]. Các cấp hội đã tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đổi mới công tác chỉ đạo, nâng cao vai trò đại diện bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nông dân. Trung ương Hội đã chỉ đạo sơ kết, tổng kết một số nghị quyết quan trọng nhằm kiểm điểm, đánh giá rút ra một số bài học kinh nghiệm để tiếp tục đẩy mạnh công tác hội và phong trào nông dân; trong đó đã ban hành 9 nghị quyết chuyên đề của Ban Chấp hành Trung ương Hội. Đã gắn công tác tuyên truyền, giáo dục với đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, tư vấn, dạy nghề, hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, đây là nhiệm vụ mới được đề cập trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ V. Các cấp Hội chú trọng công tác kiểm tra, củng cố xây dựng tổ chức Hội, tăng cường vận động phát triển hội viên mới với nhiều hình thức thiết thực, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có nhiều chuyển biến tiến bộ, trình độ năng lực cán bộ được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Các phong trào thi đua của Hội tiếp tục phát triển sâu rộng và được nâng cao về chất. Phong trào nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi tiếp tục duy trì và phát triển; nhiều mô hình kinh tế trang trại đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động; đời sống của hội viên nông dân được cải thiện, góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” được hội viên nông dân đồng tình hưởng ứng và đạt nhiều kết quả trong xây dựng gia đình văn hoá, tham gia xây dựng thôn ấp, bản, làng, xã văn hoá, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; tham gia phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội,… góp phần tích cực vào kết quả xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế nông thôn thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nông thôn.
Các cấp Hội đã chú trọng nâng cao chất lượng tham gia xây dựng các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nhất là các chế độ, cơ chế, chính sách có liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn; góp phần nâng cao uy tín, vị thế của Hội trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trong đó, đã tích cực tham mưu để Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Kết luận số 61-KL/TW ngày 03/12/2009 về Đề án “Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020”; tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành và Quyết định số 673/QĐ-TTg, ngày 10/5/2011 về việc Hội Nông dân Việt Nam trực tiếp thực hiện và phối hợp thực hiện một số chương trình, đề án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nông thôn giai đoạn 2011-2020; Quyết định số 1045/QĐ-TTg, ngày 07/7/2010 Phê duyệt Đề án "Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội Nông dân Việt Nam giai đoạn 2010 - 2015". Huy động các bộ, ban, ngành, đoàn thể vào cuộc để chung sức, chung tay giúp nông dân phát triển sản xuất, ổn định đời sống. Đây là những cơ chế, chính sách tạo ra nguồn lực vật chất quan trọng tạo điều kiện để giai cấp nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và Hội Nông dân Việt Nam có điều kiện để đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao vị thế, tham gia tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
Sau 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, công tác Hội và phong trào nông dân đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và công cuộc xây dựng nông thôn mới. Bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới, đời sống vật chất, tinh thần của hội viên, nông dân được cải thiện một bước. Theo thống kê, tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm từ 13,1% (năm 2008) xuống còn 9,45% (năm 2010), trong đó, tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm từ 16,2% xuống còn 11,3%. Khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, văn hóa của người dân nông thôn ngày càng được cải thiện tốt hơn. Hoạt động của Hội có bước phát triển mới, ngày càng phát huy vai trò trung tâm và nòng cốt trong phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới.
Đạt được những kết quả trên là do có sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành tập trung, quyết liệt của Chính phủ đối với nền kinh tế của đất nước, bảo đảm an sinh xã hội nói chung và đối với phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói riêng; sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, có trọng tâm trọng điểm, chọn những việc cần tập trung, đột phá công tác Hội của Thường trực, Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Trung ương Hội; sự tích cực đổi mới phương thức hoạt động, tăng cường kiểm tra, giám sát cơ sở, đổi mới công tác thi đua- khen thưởng của các cấp Hội và sự nỗ lực, cố gắng của toàn thể cán bộ, hội viên và nông dân cả nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác Hội và phong trào nông dân trong 3 năm qua còn một số yếu kém, hạn chế, đó là:
- Công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng cho nông dân còn hạn chế, chưa làm chuyển biến nhận thức của một bộ phận hội viên nông dân về chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, một số nơi nông dân còn tham gia khiếu kiện đông người kéo dài, một số nông dân bị lôi kéo tụ tập đông người, gây mất an ninh trật tự tại một số địa phương; ý thức bảo vệ môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội của người dân chưa cao.
- Công tác tổ chức của Hội vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu; chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp còn bất cập. Một số cấp Hội và một bộ phận cán bộ chưa năng động, chủ động, sáng tạo trong công việc, chưa tập trung quyết liệt để triển khai thực hiện Đề án 61 và Quyết định số 673/QĐ-TTg; đội ngũ cán bộ chủ chốt và những cán bộ có năng lực biến động nhiều do luân chuyển công tác đã ảnh hưởng lớn đến công tác hội và phong trào nông dân.
- Công tác kiểm tra, giám sát của Hội ở một số nơi còn hạn chế, chưa có tác dụng thúc đẩy công tác hội và phong trào nông dân; việc nắm bắt tình hình nông nghiệp, nông dân ở một số địa phương còn bị động, chưa kịp thời phát hiện những bức xúc và những khó khăn về đời sống, việc làm của nông dân, nhất là tình trạng nông dân thiếu đất sản xuất ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, tình trạng nông dân thiếu đói giáp hạt cần cứu trợ, tình hình phức tạp trong nông dân, nông thôn như vụ việc ở Mường Nhé, tỉnh Điện Biên…
- Công tác thi đua - khen thưởng vẫn có mặt hạn chế, phong trào thi đua phát triển chưa đều, nhiều nơi khen thưởng còn mang tính hình thức, chưa kịp thời.
- Các hoạt động của hệ thống Hội thường chỉ tập trung vào chỉ đạo phong trào chung chung hoặc tập trung vào thực hiện các dự án cụ thể; công tác tham mưu và triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chuyên môn của Hội còn nhiều yếu kém, nhất là việc hướng dẫn phát triển các hình thức kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn, việc xây dựng và nhân rộng các mô hình tốt về kinh tế, văn hoá, xã hội trong nông thôn. Hoạt động dịch vụ, tư vấn, dạy nghề và hỗ trợ nông dân hiệu quả chưa cao. Năng lực tham gia xây dựng và phản biện chính sách còn nhiều hạn chế; chưa làm tốt chức năng đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của nông dân.
- Hoạt động hợp tác quốc tế còn hạn chế, mới dừng lại ở hướng dẫn đoàn, phiên dịch là chính, chưa làm tốt công tác tham mưu để có giải pháp thu hút các nguồn lực từ bên ngoài để hỗ trợ, giúp đỡ nông dân trong thời kỳ hội nhập cũng như phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống.
- Một số chỉ tiêu chưa có giải pháp để tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao, như: công tác phát triển hội viên, công tác dạy nghề và hỗ trợ nông dân; chỉ tiêu giảm hộ nghèo...
- Việc chấp hành chế độ báo cáo ở một số tỉnh, thành hội, một số ban, đơn vị Trung ương Hội chưa nghiêm, nội dung sơ sài, thời gian chậm.
Phần thứ hai
NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
Giai đoạn từ nay đến hết nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ V, công tác Hội và phong trào nông dân cả nước có nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi mới, đó là các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội của Chính phủ đang có chuyển biến tốt; Đảng và Nhà nước quyết tâm tái cấu trúc nền kinh tế; đồng thời vẫn tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, nhất là khi Chính phủ phát động phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” và các bộ, ngành, địa phương đang tích cực phối hợp với tổ chức Hội triển khai thực hiện Kết luận số 61-KL/TW ngày 03/12/2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về Đề án “Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020”, Quyết định số 673/QĐ-TTg, ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc Hội Nông dân Việt Nam trực tiếp thực hiện và phối hợp thực hiện một số chương trình, đề án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nông thôn giai đoạn 2011 - 2020; Quyết định số 1045/QĐ-TTg, ngày 07/7/2010 Phê duyệt Đề án "Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội Nông dân Việt Nam giai đoạn 2010 - 2015". Đây là những thuận lợi cơ bản để Hội thực hiện nhiệm vụ công tác Hội và phong trào nông dân trong những năm tới.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế xã hội vẫn còn có những khó khăn, thử thách do hậu quả của khủng hoảng kinh tế và lạm phát đang tăng cao. Thiên tai, dịch bệnh còn diễn biến phức tạp, khó lường, ảnh hưởng đến công tác Hội và phong trào nông dân. Để khắc phục những khó khăn, thách thức, phát huy lợi thế, thực hiện tốt nhiệm vụ công tác hội và phong trào nông dân những năm còn lại của nhiệm kỳ V, các cấp Hội Nông dân cần bám sát và tăng cường lãnh đạo thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ và giải pháp mà Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ V đã đề ra và tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
1- Tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, hội viên và nông dân
Có hình thức tuyên truyền phù hợp đối với nông dân ở từng vùng, từng khu vực, từng chuyên đề; trọng tâm là tuyên truyền vận động nông dân thực hiện nghiêm các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực nông thôn gắn với triển khai thực hiện Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.
Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động tôn vinh nhà nông, tôn vinh các tổ chức, cá nhân có đóng góp quan trọng đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn; nâng cao chất lượng các giải thưởng, hội thi, nhất là giải thưởng “Nhà nông sáng tạo”, Hội thi “Nhà nông đua tài” toàn quốc và các sân chơi thể thao, văn hóa bổ ích khác.
Tăng cường công tác điều tra dư luận, kịp thời nắm bắt tư tưởng và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của hội viên, nông dân với Đảng và Nhà nước; kịp thời phát hiện và tham gia bảo vệ tích cực quyền và lợi ích chính đáng của cán bộ, hội viên, nông dân.
Chỉ đạo các cơ quan báo, tạp chí, các bản tin, các ấn phẩm, báo điện tử và website trong hệ thống Hội, đồng thời tiếp tục phối hợp có hiệu quả với các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, chuyển tải các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thông tin, phổ biến kiến thức về kinh tế, bảo vệ môi trường, pháp luật, khoa học, công nghệ, các gương điển hình tiên tiến... tới đông đảo cán bộ, hội viên và nông dân.
2- Tập trung củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán bộ Hội các cấp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành công tác kiện toàn củng cố, xây dựng tổ chức Hội, đẩy mạnh công tác phát triển hội viên gắn với đẩy mạnh đào tạo nghề cho hội viên, nông dân và nhân rộng các mô hình câu lạc bộ nông dân, các nhóm nông dân cùng sở thích, cùng nghề nghiệp...
Tăng cường đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ Hội các cấp theo Quyết định số 1045/QĐ-TTg, ngày 07/7/2010.
Tiếp tục phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương ban hành văn bản Hướng dẫn về tổ chức bộ máy, biên chế cơ quan Hội Nông dân cấp tỉnh, huyện theo Kết luận số 61-KL/TW, ngày 03/12/2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Chỉ đạo các cấp Hội chuẩn bị tốt các điều kiện, quy trình để tổ chức thành công đại hội Hội Nông dân các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ VI.
3- Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động, đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo công tác Hội và phong trào nông dân trong hệ thống Hội
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, từng bước khắc phục bệnh hành chính trong hoạt động và cải cách hành chính trong cơ quan Hội Nông dân các cấp. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các hoạt động dịch vụ, dạy nghề, tư vấn, hỗ trợ nông dân. Thành lập và phát huy vai trò của các Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân cấp tỉnh đối với phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của hội viên, nông dân.
Nâng cao hơn nữa chất lượng 3 phong trào thi đua của Hội; chỉ đạo tốt việc tổng kết Phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xoá đói, giảm nghèo và làm giàu chính đáng giai đoạn 2007 - 2011 ở cấp toàn quốc. Đồng thời, tích cực xây dựng, phát hiện và nhân rộng các mô hình sản xuất, kinh doanh giỏi ở nông thôn; hướng dẫn nông dân liên kết, hợp tác trong quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh gắn với vận động cán bộ, hội viên, nông dân tích cực hưởng ứng tham gia phong trào thi đua cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới do Thủ tướng Chính phủ phát động.
Đẩy nhanh việc giải ngân vốn quỹ Hỗ trợ nông dân của Trung ương và địa phương, bảo đảm an toàn, hiệu quả. Triển khai việc đầu tư nâng cấp, bổ sung trang thiết bị và xây mới Trung tâm dạy nghề và Hỗ trợ nông dân cấp tỉnh đã được lựa chọn năm 2012 và những năm tiếp theo.
4- Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
Tổ chức thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 6/7/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới. Tập trung vào hoạt động trao đổi kinh nghiệm phát triển nông nghiệp, hỗ trợ nông dân và xây dựng nông thôn mới theo hướng thiết thực, hiệu quả; hướng mạnh hoạt động hợp tác quốc tế vào nhiệm vụ giải quyết việc làm, tiêu thụ nông sản, nâng cao trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật, trình độ tổ chức sản xuất... cho nông dân.
5- Chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện Đề án 61: Trọng tâm là triển khai thực hiện Kết luận số 61-KL/TW ngày 03/12/2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Quyết định số 673/QĐ-TTg, ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Triển khai xây dựng và thực hiện Đề án nghiên cứu xây dựng tiêu chí và các giải pháp của Hội Nông dân Việt Nam tham gia xây dựng mẫu người nông dân trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; Đề án Nâng cao năng lực truyền thông của Hội Nông dân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tham gia thực hiện có hiệu quả Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020.
Nghiên cứu, rà soát để tham mưu giúp Đảng đoàn Quốc Hội chỉ đạo việc bổ sung, sửa đổi và xây dựng mới luật liên quan đến nông dân. Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất việc chỉnh sửa những chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đề xuất để Đảng và Nhà nước ban hành chính sách đặc thù về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
6- Tăng cường tham gia công tác xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh: phối hợp với các cấp ủy, chính quyền trong việc tiếp dân, tham gia hòa giải, giải quyết khiếu nại, tố cáo của nông dân; nâng cao năng lực tham gia xây dựng và phản biện chính sách liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tham gia giám sát các tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên ở địa phương trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và hiệu quả thực hiện cuộc vận động Học tập tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tích cực xây dựng khối đoàn kết dân tộc, phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội với bảo vệ Đảng, bảo đảm an ninh trật tự xã hội ở nông thôn.
7- Thực hiện tốt chế độ thông tin báo cáo, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức chỉ đạo thực hiện hoàn thành thắng lợi phương hướng mục tiêu, nhiệm vụ công tác hội và phong trào nông dân nhiệm kỳ 2008-2013.
Nơi nhận: T/M BAN CHẤP HÀNH
- Ban Bí thư T.Ư Đảng (để B/c) PHÓ CHỦ TỊCH THƯỜNG TRỰC
- Ban Dân vận Trung ương,
- Ban Tổ chức Trung ương, (đã ký)
- Ban Kiểm tra Trung ương,
- Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Phúc Mịch
- Văn phòng Chính phủ,
- Các đ/c Uỷ viên BCH T.Ư Hội,
- Các tỉnh, thành Hội,
- Các ban, đơn vị TƯ Hội,
- Lưu.
[1] Các chỉ tiêu: Phấn đấu 100% thôn, ấp, bản có nông dân có tổ chức Hội; Có trên 80% cơ sở Hội đạt danh hiệu khá và vững mạnh, trong đó 60% cơ sở Hội vững mạnh; Phấn đấu 100% chi Hội có quỹ Hội; Hàng năm có từ 60% số hộ nông dân trở lên đăng ký phấn đấu và có từ 50% số hộ đăng ký trở lên đạt danh hiệu sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp; Phối hợp tổ chức dạy nghề ngắn hạn cho 20 vạn nông dân/năm